Tôi trở thành học sinh tiểu học vào tháng 4 năm 1952, khi Hiệp ước Hòa bình San Francisco có hiệu lực. Việc Nhật Bản thoát khỏi sự chiếm đóng của GHQ và bắt đầu con đường trở thành một quốc gia dân chủ, một thành viên của phe tự do, trùng hợp với khởi đầu đời sống học sinh của tôi.
Những gì tôi học ở trường là nền giáo dục nhằm thoát khỏi những tư tưởng xấu xa của Nhật Bản trước chiến tranh và hướng tới một quốc gia dân chủ trong tương lai. Nhớ lại bây giờ, trọng tâm của nền giáo dục đó là việc học về chủ nghĩa Khai sáng châu Âu.
Chủ nghĩa Khai sáng nảy sinh ở Anh và Pháp vào cuối thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, coi Tân Thế giới, châu Á, châu Phi là những vùng đất chưa khai hóa và xem việc khai sáng văn minh chúng bằng lý trí là sự tiến bộ. Bối cảnh đằng sau đó là sự vượt trội của châu Âu sau Cách mạng Công nghiệp, thoát khỏi xã hội nông nghiệp và hiện thực hóa xã hội công nghiệp.
Những tư tưởng của John Locke và Jean-Jacques Rousseau như "Con người có quyền sinh tồn và quyền mưu cầu hạnh phúc. Và tất cả con người đều bình đẳng. Hệ thống cũ áp bức điều đó có thể bị lật đổ", cùng với "Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ" và "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp" ra đời từ đó, được dạy cho chúng tôi như những nguyên tắc phổ quát của nhân loại.
Tôi bắt đầu liên tưởng hệ thống cũ mà các nhà tư tưởng Khai sáng nhắc đến với chế độ phong kiến Nhật Bản và chủ nghĩa quân phiệt trước chiến tranh, và hình thành hình ảnh rằng thời kỳ trước chiến tranh là một thời kỳ tồi tệ và tăm tối, còn từ bây giờ sẽ là một thời kỳ tươi sáng đầy hy vọng.
Hai năm sau khi tôi nhập học, chính phủ đã ban hành Luật Bữa ăn học đường. Để cải thiện chế độ ăn của người dân, bữa ăn học đường bắt buộc được thực hiện trong quá trình giáo dục phổ thông. Luật đó quy định nội dung bữa ăn là "bánh mì hoặc ngũ cốc gạo, sữa và món ăn kèm". Bánh mì được ưu tiên và việc uống sữa là bắt buộc. Tôi đã được cho ăn bữa trưa học đường gồm bánh mì koppepan, sữa bột gầy và bơ thực vật.
Bữa ăn không ngon, nhưng giáo viên nói rằng "ăn cơm sẽ thiếu vitamin B1 gây bệnh tê phù" hoặc "gây lú lẫn", và dạy rằng bữa ăn kiểu Tây bổ dưỡng hơn bữa ăn truyền thống của Nhật Bản.
Năm tôi học cấp hai, cuốn sách 『頭脳―才能を引き出す処方箋』 (Trí tuệ - Đơn thuốc khai phóng tài năng) của Koubunsha được xuất bản từ Kappa Books và trở thành sách bán chạy nhất. Tác giả là Yoshitaka Hayashi, giáo sư khoa Y Đại học Keio và nhà sinh lý học não bộ. Cuốn sách viết rằng "ăn cơm sẽ trở nên ngốc nghếch", làm tăng tốc độ người Nhật bỏ ăn cơm. Nhiều gia đình bắt đầu ăn bánh mì vào bữa sáng, và điều đó trở thành thói quen hàng ngày của người Nhật.
Hai mươi ba năm sau, vào năm 1981, khi đang sản xuất một bộ phim tài liệu thời sự tại TBS, tôi được nghe một câu chuyện khủng khiếp từ cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Ông nói rằng việc cung cấp bánh mì cho bữa ăn học đường ở Nhật Bản và khiến người Nhật bỏ ăn cơm là chiến lược dài hạn của Mỹ.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc phỏng vấn là việc Mỹ tăng diện tích trồng lúa từ cuối những năm 70. Tại sao diện tích trồng lúa lại tăng ở Mỹ, một quốc gia không ăn cơm? Để giải đáp thắc mắc này, tôi đã đi phỏng vấn ở các bang Arkansas, Texas, Louisiana và California, những vùng trồng lúa.
Tại Arkansas có công ty xay xát gạo lớn nhất nước Mỹ, và chủ tịch công ty đó chính là cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp. Ông nói với tôi rằng "Gạo là vật tư chiến lược của Mỹ". Ông nói tất cả các cuộc chiến tranh sau Chiến tranh thế giới thứ hai đều xảy ra ở các quốc gia lấy cơm làm lương thực chính.
Thật vậy, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Trung Đông đều xảy ra ở các quốc gia lấy cơm làm lương thực chính. Đối với Mỹ, quốc gia dẫn đầu thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gạo là một vũ khí trong chiến lược ngoại giao. Tôi, người chỉ xem nông nghiệp là sản xuất lương thực cho người dân, đã bị sốc trước sự khác biệt trong cách suy nghĩ của Mỹ.
Tuy nhiên, lời nói tiếp theo của cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp đã gây ra cú sốc đến mức buồn nôn, vượt qua cả sự kinh ngạc. Ông nói rằng việc Mỹ tăng diện tích trồng lúa là để xuất khẩu gạo sang châu Âu, và họ đang tái hiện thành công việc thay đổi thói quen ăn cơm của người Nhật bằng bánh mì thông qua bữa ăn học đường, đồng thời tuyên truyền việc ăn cơm ở châu Âu với khẩu hiệu "Cơm là thực phẩm dinh dưỡng hoàn chỉnh. Hãy cho trẻ em ăn cơm vì sức khỏe của chúng!"
Từ khi thành lập quốc gia, Mỹ đã xuất khẩu nông sản sang châu Âu. Tuy nhiên, các quốc gia châu Âu đã bãi bỏ thuế quan lẫn nhau với mục tiêu trở thành một cộng đồng, và vì thế không còn nhập khẩu nông sản từ Mỹ nữa. Cây trồng nào mà châu Âu không trồng được? Gạo chỉ được trồng ở miền nam Ý và Tây Ban Nha. Vì vậy, họ đã bắt đầu chiến dịch cho trẻ em châu Âu ăn cơm.
Chính phủ Mỹ đã thiết lập một cơ sở ở Zurich, Thụy Sĩ, và cố gắng thay đổi thói quen ăn uống của châu Âu dưới danh nghĩa sức khỏe trẻ em. Người Nhật bắt đầu ăn bánh mì qua bữa ăn học đường, được dạy rằng cơm không tốt cho sức khỏe, dẫn đến việc bỏ ăn cơm và buộc phải dựa vào việc nhập khẩu lúa mì từ Mỹ làm lương thực chính. Tuy nhiên, Mỹ lại quảng cáo gạo là thực phẩm dinh dưỡng hoàn chỉnh để xuất khẩu sang châu Âu.
Là biện pháp đối phó với việc bỏ ăn cơm, chính phủ Nhật Bản đã thực hiện "chính sách giảm sản lượng" (Gentan seisaku). Mục đích là để giảm lượng cung cấp gạo, nâng giá lên, ổn định thu nhập của nông dân và giải quyết tình trạng tồn kho dư thừa. Kết quả là, các hộ nông dân nhỏ lẻ làm thêm nghề tồn tại, một số nông dân có thu nhập ngoài nông nghiệp, nhập khẩu lương thực tăng, và tỷ lệ tự cung tự cấp lương thực đạt 38%, thấp nhất trong các nước phát triển.
Tuy nhiên, người dân không cảm thấy khủng hoảng về điều đó. Điều này hoàn toàn khác biệt với Thụy Sĩ, một quốc gia có ít đất nông nghiệp, đã thay đổi Hiến pháp bằng trưng cầu dân ý, ghi mục tiêu tỷ lệ tự cung cấp lương thực 50% vào Hiến pháp, và để đạt được điều đó, họ không mua nông sản nước ngoài và khuyến khích người dân tiêu dùng sản phẩm địa phương.
Chính sách giảm sản lượng gạo có thể dẫn đến tăng giá gạo đột ngột chỉ với một chút tác động. Vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra đợt tăng giá gạo trong năm nay là gì, nhưng người dân đã làm ầm ĩ như thể một điều không thể xảy ra đã xảy ra. Tuy nhiên, nếu tiếp tục chính sách giảm sản lượng, việc giá gạo tăng đột ngột là hoàn toàn có thể.
Chính phủ đã cố gắng kiềm chế giá tăng bằng cách tung ra lượng gạo dự trữ cũ. Tuy nhiên, lượng gạo dự trữ có hạn và dù bán với giá rẻ đến đâu cũng không giải quyết được vấn đề. Tuy nhiên, khi gạo dự trữ giá rẻ được tung ra, người dân lại tranh nhau mua, và Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Shinjiro Koizumi, người đã tung ra lượng gạo đó, được coi như một vị cứu tinh.
Tôi cảm thấy giống như khi biết rằng bữa ăn học đường ở Nhật Bản là một âm mưu của Mỹ, nhằm buộc Nhật Bản phải phụ thuộc vào nhập khẩu nông sản từ Mỹ và mục đích là để Nhật Bản chịu sự lệ thuộc. Đó là một cảm giác khó chịu đến mức buồn nôn.
Tám mươi năm sau chiến tranh, liệu người Nhật, những người đã tin rằng mình được giải thoát khỏi thời kỳ tăm tối trước chiến tranh và chào đón một thời kỳ tươi sáng của nền dân chủ, đã đánh mất khả năng nhìn nhận bản chất vấn đề và lang thang trong thế giới ảo giác chăng? Điều này cũng có thể nói về quan điểm lịch sử mà tôi đã được dạy ở trường.
Tôi đã chia lịch sử Nhật Bản thành thời kỳ trước và sau chiến tranh để suy nghĩ. Tuy nhiên, nếu nghĩ kỹ lại, bảy năm từ khi tôi sinh ra cho đến khi vào tiểu học là thời kỳ Nhật Bản không có chủ quyền, thời kỳ bị chiếm đóng. Và trong thời kỳ đó, cấu trúc của Nhật Bản hậu chiến đã được hình thành, và Nhật Bản hậu chiến dựa trên nền tảng đó.
Tuy nhiên, không ai ở trường dạy tôi về thời kỳ chiếm đóng đó. Không chỉ ở trường. Cha mẹ và truyền thông cũng không đề cập đến điều đó. Trong lịch sử Nhật Bản, "bảy năm chiếm đóng" đã để lại một lỗ hổng lớn. Tôi đã nhận ra điều đó một cách sâu sắc khi phỏng vấn về vụ án Lockheed xảy ra vào năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, tin tức chấn động từ Mỹ bay đến. Tiểu ban các tập đoàn đa quốc gia của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ đã phanh phui vụ hối lộ của công ty công nghiệp quân sự Lockheed của Mỹ. Công ty Lockheed đã rải tiền cho các chính trị gia thế giới phương Tây để họ mua máy bay, và thuê các đại diện bí mật ở mỗi quốc gia để thực hiện công việc đó.
Tên của Yoshio Kodama, người đứng đầu nhóm dân tộc cực hữu ở Nhật Bản, đã được tiết lộ, cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Tây Đức, Phó Tổng thống Ý, và chồng của Nữ hoàng Hà Lan, với tư cách là đại diện bí mật. Tại sao một người làm phong trào yêu nước lại là tay sai cho công nghiệp quân sự Mỹ? Tiền bí mật đã chảy từ Kodama đến ai trong giới chính trị?
Lúc đó, tôi là phóng viên tự do của bộ phận xã hội của TBS, đã đi phỏng vấn những người biết Kodama để theo đuổi bí ẩn đó. Tôi đã lần lượt gặp những người như Ryoichi Sasakawa, người thân thiết với Kodama từ trước chiến tranh trong phong trào cực hữu và vẫn giữ ảnh hưởng sau chiến tranh bằng cách thành lập Hội đua thuyền máy; Masamitsu Moriwaki, người được gọi là 'vua tài chính Showa'; Isamu Amakawa, người từ giáo sư Đại học Hải quân có ảnh hưởng đến Cơ quan Phòng vệ sau chiến tranh; đặc vụ của Cơ quan Cannon, nơi thực hiện các hoạt động bí mật ở Nhật Bản sau chiến tranh; và các thành viên của Cơ quan Kodama, nơi triển khai các hoạt động bí mật của Hải quân ở Thượng Hải.
Trong quá trình đó, tôi nhận ra rằng Akasaka, nơi có trụ sở của TBS, và Roppongi, nơi có TV Asahi, có mối quan hệ sâu sắc với quân đội Mỹ. Thời đó, ở Akasaka có khách sạn Sanno, nơi các sĩ quan quân đội Mỹ thường lui tới, và quân đội Mỹ thường xuyên có cuộc họp với các quan chức Nhật Bản ở đó. Tuy nhiên, nội dung cuộc họp hoàn toàn không được tiết lộ.
Ngoài ra, ở Akasaka còn có các câu lạc bộ đêm và sàn nhảy cao cấp, cũng là vì có các sĩ quan quân đội Mỹ. Và ở Akasaka có một số công ty liên quan đến Kodama, và một người được phỏng vấn đã cảnh báo tôi: "Đừng uống rượu ở Akasaka. Có nhiều quán do Kodama kiểm soát. Nếu mày lảng vảng điều tra về Kodama ở Akasaka, mày sẽ bị giết."
Một ngày nọ, có cuộc điện thoại gọi đến bàn làm việc của tôi với giọng của một người tự xưng là tiền bối ở TBS, nói: "Mày vào công ty năm nào. Dừng ngay việc điều tra những chuyện kỳ lạ đó đi". Trong thời kỳ thành lập TBS, các thành viên của Cơ quan Kodama đã là cấp quản lý, và TBS cũng là một trong những công ty do Kodama kiểm soát.
Một cuộn phim quý hiếm ghi lại tang lễ khi Kodama còn sống tại Ikegami Honmonji đã được tìm thấy trong kho của TBS. Cuộn phim đó không được quay để phát sóng, mà để tặng cho chính Kodama. Tôi đã sử dụng cuộn phim đó và những bức ảnh về Cơ quan Kodama ở Thượng Hải mà tôi lấy được từ các thành viên của Cơ quan Kodama để làm một chương trình thời sự dài một tiếng rưỡi có tên "Ánh sáng và Bóng tối của Yoshio Kodama".
Tuy nhiên, việc thu thập thông tin này rất khó khăn. Dù tìm kiếm bao nhiêu bài báo, cũng không thấy bài nào ghi lại hoạt động của Kodama trong thời kỳ chiếm đóng. Hoạt động của lực lượng chiếm đóng cũng được giữ bí mật. Không có manh mối trên báo chí hay truyền hình, tôi chỉ có thể dựa vào các tạp chí phanh phui xuất hiện như nấm sau mưa vào năm 1952 khi Nhật Bản thoát khỏi sự chiếm đóng.
Hễ rảnh rỗi, tôi lại đi tìm kiếm các hiệu sách cũ khắp Tokyo để tìm các tạp chí phanh phui. Tôi đã điều tra quá trình Kodama giấu vật tư mang về từ Trung Quốc, sau khi bị giam tại nhà tù Sugamo với tư cách là tội phạm chiến tranh, ông đã cung cấp số vật tư đó làm quỹ thành lập Đảng Tự do cho Ichiro Hatoyama và có ảnh hưởng ngấm ngầm trong giới chính trị.
Dù vậy, việc tìm hiểu về thời kỳ đó vẫn có giới hạn. Đó là vì GHQ đã áp đặt kiểm soát thông tin nghiêm ngặt. Do đó, thông tin bất lợi cho Mỹ hoàn toàn không được công khai. Ngoài ra, GHQ đã sử dụng báo chí và đài phát thanh để tuyên truyền triệt để rằng chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản tệ hại đến mức nào.
Nhà văn Eto Jun đã viết『閉ざされた言語空間』 (Không gian ngôn ngữ bị đóng kín), làm sáng tỏ thực trạng kiểm duyệt của lực lượng chiếm đóng. Theo đó, GHQ đã kiểm duyệt các ấn phẩm, phim ảnh và kịch chống lại chính sách của GHQ để chúng không đến tay người dân, nhằm mục đích gieo rắc cảm giác tội lỗi về việc gây chiến cho người Nhật.
Các tờ báo quốc gia đã đăng "Lịch sử Chiến tranh Thái Bình Dương" theo chỉ thị của GHQ, và đài phát thanh NHK đã phát sóng chương trình "Sự thật là thế này", nhưng cả hai đều là thông tin với bố cục Mỹ là chính nghĩa và Nhật Bản là cái ác.
Tôi đã được dạy ở trường về kiểm duyệt và kiểm soát thông tin của quân đội Nhật Bản trong thời chiến, nhưng không biết về thực trạng kiểm duyệt của Mỹ cho đến khi phỏng vấn vụ án Lockheed. Vụ án Lockheed đã mở ra chiếc hộp Pandora của thời kỳ chiếm đóng. Tôi cảm thấy ý nghĩa cuộc sống trong việc khai quật bóng tối của lịch sử chưa được biết đến. Dù được cảnh báo có thể gặp nguy hiểm đến tính mạng, mỗi ngày đều ý nghĩa.
Trong quá trình đó, tôi gặp Yasuhiro Nakasone là chính trị gia gần gũi nhất với Kodama. Hai người có một thư ký chung tên là Tsuneo Tachikawa. Và công ty Lockheed có lý do chính đáng để nhắm đến Nakasone thông qua Kodama.
Những thứ Lockheed muốn bán cho Nhật Bản là máy bay tuần tra chống ngầm P3C Orion và máy bay dân dụng TriStar. Mỹ có mục đích muốn Nhật Bản phát hiện các tàu ngầm Liên Xô xuất phát từ Vladivostok. Tuy nhiên, Nakasone chủ trương tự sản xuất vũ khí và thận trọng với việc mua vũ khí Mỹ. Để thay đổi điều đó, liệu Lockheed có đưa cho Kodama 2.5 tỷ yên tiền hoạt động không? Tôi đã tin chắc như vậy.
Mặt khác, tôi biết rằng Jack Cannon của Cơ quan Cannon, đơn vị được đồn là đã thực hiện các vụ Shimoyama, Matsukawa và Mitaka xảy ra dưới thời chiếm đóng, vẫn còn sống ở Mỹ. Tôi đã trình kế hoạch phỏng vấn ở Mỹ cho công ty và định tiếp tục khai quật lịch sử hậu chiến. Tuy nhiên, việc khai quật lịch sử hậu chiến đột ngột kết thúc sau hai tháng.
Đó là vì tài liệu vụ án Lockheed mà chính quyền Miki yêu cầu từ chính phủ Mỹ đã được chuyển đến Cục Điều tra Đặc biệt Viện Kiểm sát Tokyo vào ngày 11 tháng 4. Việc phỏng vấn vụ Lockheed hoàn toàn tập trung vào cuộc điều tra của Cục Điều tra Đặc biệt Viện Kiểm sát Tokyo. Tôi, với tư cách là phóng viên tự do đã phỏng vấn Kodama, được điều động sang hỗ trợ câu lạc bộ phóng viên tư pháp và lần đầu tiên trải nghiệm việc phỏng vấn trong câu lạc bộ phóng viên kể từ khi vào công ty.