
Ảnh chụp nhà máy nhiệt điện ở Thần Mộc, tỉnh Thiểm Tây. Chụp tháng 11 năm 2023. REUTERS/Ella Cao
Sudarshan Varadhan
[BELÉM, Brazil ngày 19 tháng 11, Reuters] - Việc phụ thuộc vào điện than ở các quốc gia châu Á như Indonesia và Việt Nam đang trở thành một trở ngại lớn trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo các nhà nghiên cứu khí hậu và các tổ chức thúc đẩy năng lượng tái tạo, nguyên nhân khiến quá trình chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch bị trì hoãn ở châu Á là do các hợp đồng mua bán điện than đá kéo dài hàng thập kỷ.
Theo Liên minh Chấm dứt Than đá (PPCA), một khuôn khổ quốc tế nhằm loại bỏ điện than, 50-100% công suất điện than ở Đông Nam Á bị ràng buộc bởi các hợp đồng mua bán điện dài hạn, với thời gian hiệu lực trung bình còn lại từ 9 đến 18 năm. Các chuyên gia năng lượng tái tạo cho biết, các nhà mua điện ở các nền kinh tế lớn của châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ cũng đang ký kết các hợp đồng mua điện than dài hạn.
Bà Julia Skorupska, Tổng thư ký PPCA, người tham dự Hội nghị lần thứ 30 của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP30) tại Brazil, cho biết: "Nhiều hợp đồng trong số này không thể đáp ứng yêu cầu của các hệ thống cung cấp điện mới phù hợp với năng lượng tái tạo."
Theo dữ liệu từ Ember, một tổ chức tư vấn khí hậu, mức độ phụ thuộc vào than đá của Đông Nam Á đã tăng từ 35% lên khoảng 45% tổng sản lượng điện hàng năm trong thập kỷ qua. Trong cùng thời gian, sự phụ thuộc vào than đá trên toàn cầu đã giảm từ 39% xuống 34%.
Tỷ lệ sử dụng năng lượng sạch ở Đông Nam Á cũng chậm hơn mức trung bình toàn cầu (41%), chỉ đạt 26% tổng sản lượng điện hàng năm.
Các hợp đồng dài hạn đảm bảo thu nhập ổn định cho chủ sở hữu nhà máy điện than và việc làm ổn định cho nhân viên. Do đó, việc chuyển đổi khỏi than đá không hấp dẫn về mặt chính trị và kinh tế đối với các chủ nhà máy điện.
Ngoài ra, nếu các công ty cung cấp điện phá vỡ hợp đồng mua điện than, họ cũng phải chịu rủi ro bồi thường thiệt hại dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào nội dung hợp đồng và quy mô thiếu hụt mua.
Tại Trung Quốc, lượng khí thải carbon dioxide đã ổn định hoặc giảm trong 18 tháng liên tiếp, chủ yếu nhờ vào sự gia tăng sản xuất điện sạch, và dự kiến sẽ giảm trong năm nay. Tuy nhiên, nhu cầu than vẫn còn cao.
Theo thống kê của chính phủ, sản lượng điện từ các nhà máy nhiệt điện than và khí đốt trong tháng 10 đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Ông Lauri Myllyvirta, nhà phân tích trưởng tại Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA) có trụ sở tại Helsinki, cho biết: "Mối lo ngại là sự lặp lại của những gì đã xảy ra vào cuối năm ngoái. Các nhà vận hành lưới điện đã đảm bảo quá mức điện than theo các hợp đồng dài hạn, và kết quả là họ đã quyết định hạn chế sản lượng điện mặt trời và điện gió."
Tại các quốc gia lớn trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm Nhật Bản, Úc và Ấn Độ, việc hạn chế năng lượng tái tạo cũng đã trở nên nghiêm trọng hơn trong năm nay.
Theo công ty nghiên cứu năng lượng Wood Mackenzie, tỷ lệ hạn chế điện mặt trời ở Trung Quốc dự kiến sẽ đạt trung bình hơn 5% tại 21 tỉnh trong thập kỷ tới.
Trong khi đó, bất chấp chính sách mở rộng công suất năng lượng sạch của chính phủ Ấn Độ, các bang của nước này vẫn đang lên kế hoạch ký kết các hợp đồng dài hạn mới với các nhà vận hành nhà máy điện than.
Trong một báo cáo chung, Ember và công ty tư vấn Climate Trends chỉ ra rằng, trong bối cảnh sản xuất năng lượng tái tạo ngày càng tăng, việc các nhà bán lẻ điện phụ thuộc vào các hợp đồng kéo dài hàng thập kỷ với các nhà vận hành nhà máy điện than có thể dẫn đến chi phí cố định lớn và làm mất giá trị tài sản than.
Bà Shreya Jai, một trong những tác giả của báo cáo và phụ trách mảng năng lượng tại Climate Trends, cho biết: "Các công ty cung cấp điện cần xem xét lại kế hoạch tài nguyên và làm cho các hợp đồng mua điện trở nên linh hoạt hơn."