Hàn Quốc: Vấn đề tỉ lệ sinh giảm nghiêm trọng và cơ hội bỏ lỡ để ngăn chặn khủng hoảng dân số

Bối cảnh và các cơ hội bị bỏ lỡ đầu tiên (Phần 1)

Tháng 6 năm 1963, Hội nghị Kế hoạch hóa gia đình toàn quốc lần thứ nhất với khẩu hiệu "Sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con cái chu đáo" đã được tổ chức tại Hội trường lớn của Hội Chữ thập đỏ. [Ảnh: JoongAng Photo]

Năm 2015, chính phủ Việt Nam đã ngỏ ý "muốn tham vấn về chính sách dân số" với tôi. Khi tôi hỏi "Tại sao lại tham vấn một người Hàn Quốc về chính sách dân số?", tôi đã nhận được một câu trả lời hơi buồn: "Chúng tôi muốn đuổi kịp Hàn Quốc về kinh tế, nhưng xin hãy giúp chúng tôi đừng để dân số trở nên giống Hàn Quốc". Tại sao Việt Nam lại lấy Hàn Quốc làm bài học tránh?

Lịch sử biến đổi dân số của Hàn Quốc là một chuỗi những bất ngờ chưa từng thấy ở bất kỳ quốc gia nào khác. Tỉ lệ sinh tổng hợp đặc trưng là 0.75 (tính đến năm 2024), thấp nhất thế giới. Tuy nhiên, vào đầu những năm 1960, khi thế hệ bùng nổ dân số ra đời, con số này đã vượt quá 6. Trong môi trường khó khăn sau chiến tranh, nhiều trẻ em tử vong ngay sau khi sinh hoặc trong vài năm đầu, và số ca sinh cũng rất nhiều. Thói quen khai sinh muộn cũng có phần liên quan.

Chính phủ thời bấy giờ đã dốc toàn lực vào việc hạn chế sinh sản. Các áp phích với dòng chữ "Sinh nhiều sẽ không thoát khỏi cảnh nghèo đói" được dán khắp nơi. Đến năm 1984, tỉ lệ sinh giảm xuống còn 1.74, đưa Hàn Quốc vào nhóm các quốc gia có tỉ lệ sinh thấp. Mãi đến cuối những năm 1990, chính sách của chính phủ mới chuyển sang khuyến khích sinh sản. Trong 40 năm kể từ giữa những năm 80, tỉ lệ sinh của Hàn Quốc đã liên tục giảm. Hàn Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có tỉ lệ sinh giảm từ 6 xuống dưới 1 trong vòng 60 năm.

Chúng ta thường nghe những kỳ vọng rằng nếu tình hình kinh tế tốt hơn, tỉ lệ sinh cũng sẽ tăng lên. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh không nhất thiết tăng khi kinh tế phát triển. Tỉ lệ sinh giảm là do thanh niên trong độ tuổi kết hôn tập trung về Seoul, làm gia tăng "cường độ cạnh tranh". Ở Hàn Quốc, phần lớn thanh niên muốn định cư ở khu vực thủ đô, chủ yếu là Seoul. Các quốc gia thành phố khác (như Singapore, Hồng Kông, Macau) cũng thể hiện đặc điểm tương tự. Tỉ lệ sinh của tất cả các quốc gia thành phố này đều dưới 1.

Sự tập trung dân số vào khu vực thủ đô của Hàn Quốc nổi bật hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Theo điều tra dân số năm 1970, trong tổng số 26.26 triệu người trên toàn quốc, khoảng 7.54 triệu người (28.7%) sống ở Seoul và Gyeonggi (bao gồm Incheon). Busan có 1.59 triệu người (6.1%). 54 năm sau, vào năm 2024, tổng dân số đã tăng lên 49.76 triệu người (tính theo người bản địa). Trong số này, số cư dân sống ở khu vực thủ đô lên tới 25.13 triệu người (50.5%).

Trước đây, việc theo học các trường đại học quốc gia hoặc trường trung học danh tiếng ở địa phương rất phổ biến, nhưng hiện nay, các bậc cha mẹ lại muốn gửi con cái lên Seoul. Xu hướng tìm việc làm cũng tập trung mạnh vào Seoul và khu vực thủ đô. Vì lý do này, đối với thanh niên, "sinh tồn" đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, hơn cả việc kết hôn hay sinh con. Khác với các quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, nơi dân số phân tán đến các thành phố ngoài thủ đô, ở Hàn Quốc, sự tập trung dân số khiến cạnh tranh trở nên quá gay gắt, và thực tế là tỉ lệ sinh chỉ có thể tiếp tục giảm.

Sự thay đổi về tuổi thọ trung bình (tuổi thọ kỳ vọng) cũng rất ấn tượng. Năm 1970, tuổi thọ trung bình của nam giới là 58.7 tuổi và nữ giới là 65.8 tuổi. Đến năm 2023, con số này đã tăng lên 80.6 tuổi đối với nam và 86.4 tuổi đối với nữ. Trong hơn 50 năm, tuổi thọ của nam giới đã tăng 22 tuổi, và nữ giới tăng 21 tuổi. Tốc độ tăng trưởng này thuộc hàng đầu thế giới.

Hàn Quốc: Quốc gia duy nhất chuyển từ ưu tiên con trai sang con gái

Thay đổi đáng kể nhất là sự chuyển đổi tỉ lệ giới tính. Tỉ lệ giới tính bình thường là 104-106 nam trên 100 nữ. Sau khi siêu âm được giới thiệu vào những năm 1980, cho phép xác định giới tính thai nhi, sự ưu tiên con trai đã phản ánh trực tiếp vào tỉ lệ giới tính khi sinh, tăng lên 116.5 vào năm 1990. Áp lực phải sinh con trai nếu con đầu lòng là con gái đã khiến tỉ lệ giới tính của con thứ ba lên tới 189.9. Tuy nhiên, tỉ lệ giới tính khi sinh năm 2024 là 105, nằm trong phạm vi bình thường, và tỉ lệ giới tính của con thứ ba thậm chí còn thấp hơn, ở mức 102.9. Mặc dù không ít quốc gia có truyền thống ưu tiên con trai mạnh mẽ như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Nepal, Iran, nhưng Hàn Quốc là trường hợp duy nhất đã chuyển từ ưu tiên con trai sang ưu tiên con gái.

Nhìn lại, dù kết quả của kế hoạch hóa gia đình như thế nào, chính phủ đã bỏ lỡ ba thời điểm quan trọng khi không thể mạnh dạn thay đổi chính sách. Lần đầu tiên là vào năm 1989. Mặc dù tỉ lệ sinh tổng hợp đặc trưng lúc bấy giờ là 1.56 đã cho thấy nguy cơ tỉ lệ sinh thấp sắp xảy ra, chính phủ vẫn tiếp tục kế hoạch hóa gia đình tập trung vào việc hạn chế sinh sản như một thói quen. Kể từ năm 1984, tỉ lệ sinh đã giảm xuống mức dưới 2 và không phục hồi, số ca sinh cũng giảm 220.000 từ 848.000 vào năm 1982 xuống còn 624.000 vào năm 1987. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cũng giảm mạnh từ 17 trên 1000 trẻ sơ sinh vào năm 1980 xuống còn 8 vào năm 1988, khiến khó có lý do để tỉ lệ sinh tự nhiên phục hồi. Cùng năm đó, Nhật Bản đã đặt tên cho tỉ lệ sinh tổng hợp đặc trưng 1.57 là "cú sốc 1.57" và bắt đầu hành động quyết liệt từ năm 1990. Nếu Hàn Quốc cũng đã chấm dứt chính sách hạn chế và thay đổi trọng tâm chính sách dân số vào thời điểm đó, có lẽ đã có thể tránh được số ca sinh hàng năm chỉ ở mức 200.000 như ngày nay.

Các cơ hội bị bỏ lỡ và thách thức hiện tại (Phần 2)

Khẩu hiệu "Chỉ sinh hai con và nuôi dạy chúng nên người" cũng dần thay đổi thành "Hai con cũng là quá nhiều". [Ảnh: JoongAng Photo]

Cơ hội thứ hai là vào năm 1997. Kế hoạch hóa gia đình tiếp tục cho đến năm 1996 và dừng lại vào năm 1997, khi tỉ lệ sinh giảm xuống 1.54. Mặc dù việc hạn chế sinh sản cuối cùng đã kết thúc, nhưng sau đó, chính phủ đã xóa bỏ hoàn toàn chính sách dân số. Tổ chức chịu trách nhiệm giám sát biến động dân số và thiết kế chính sách đã biến mất. Nhật Bản đã chuyển từ việc kiềm chế sinh sản sang khuyến khích sinh sản ngay sau "cú sốc 1.57". Việt Nam, với tỉ lệ sinh dưới 2 vào năm 2021, đã chính thức bãi bỏ chính sách hai con đã duy trì khoảng 30 năm vào tháng 6 năm nay và chuyển hướng sang khuyến khích. Ngược lại, Hàn Quốc đã trải qua 8 năm trống rỗng mà không có bộ phận chịu trách nhiệm cho đến khi Cục Chính sách Dân số Sinh sản Thấp được thành lập trong Bộ Y tế và Phúc lợi vào năm 2005. Khi tỉ lệ sinh giảm xuống 1.08 vào năm 2005, một tổ chức đã được thiết lập một cách vội vã, nhưng nó chỉ ở cấp phòng ban và hiệu quả bị hạn chế. Khoảng trống này đã dẫn đến việc cấu trúc hóa sự gia tăng tuổi kết hôn, trì hoãn sinh con và sự lan rộng của lựa chọn không có con.

Cơ hội thứ ba là vào năm 2020. Hiện nay, hầu hết các chính sách dân số của Hàn Quốc đều được thúc đẩy dựa trên "Luật Cơ bản về Xã hội Già hóa và Tỉ lệ Sinh thấp" được ban hành vào năm 2005. Dựa trên luật này, các kế hoạch trung và dài hạn toàn quốc được lập và thực hiện theo chu kỳ 5 năm. Như tên gọi, trọng tâm ban đầu khi ban hành luật là dân số già hóa và tỉ lệ sinh thấp. Khi tỉ lệ sinh thấp tiếp tục, nó đã lan rộng ra toàn bộ xã hội, ảnh hưởng đến giáo dục, thị trường nội địa, thị trường lao động, lương hưu, quân đội và sự mất cân bằng khu vực. Tiếng nói yêu cầu một cách tiếp cận toàn diện và tổng thể hơn cho chính sách dân số ngày càng cao.

Dân số người bản địa giảm mạnh từ năm 2018

Năm 2020, chính phủ và Quốc hội đã cố gắng đổi tên luật thành "Luật Cơ bản về Chính sách Dân số" để nhấn mạnh việc ứng phó và chuẩn bị cho tương lai, vượt qua vấn đề tỉ lệ sinh thấp. Tuy nhiên, dự luật này đã không được thông qua tại Quốc hội khóa 24 và bị loại bỏ. Hiện tại, dường như nó cũng không được thảo luận. Chỉ có các biện pháp đối phó với tỉ lệ sinh thấp theo từng bộ phận vẫn tiếp tục.

Giảm dân số là một thực tế đã định. Cần phải thiết kế chính xác tương lai của quốc gia phù hợp với điều này. Chỉ khi đó mới có thể ngăn chặn sự hỗn loạn vào những năm 2030 và hy vọng tỉ lệ sinh sẽ phục hồi. Dân số người bản địa của Hàn Quốc đã giảm từ đỉnh điểm vào năm 2018. Trọng tâm của sự giảm sút là thanh niên và thiếu niên. Đặc biệt, xu hướng giảm ở các vùng nông thôn rất đáng chú ý. Mặc dù chính phủ hàng năm chi hàng nghìn tỉ won để cố gắng mở rộng dân số địa phương, nhưng từ góc độ lý thuyết dân số Hàn Quốc, không có khả năng dân số sẽ tăng trở lại trong tương lai. Việc tăng dân số ở các vùng nông thôn cũng khó khăn.

Có thể bạn nghĩ rằng điều này quá bi quan, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Để dân số tăng lên, số ca sinh phải vượt quá số ca tử vong. Tuy nhiên, số ca tử vong vào năm 2024 là 358.000 người, và do có nhiều người cao tuổi, con số này chắc chắn sẽ tiếp tục tăng mỗi năm. Khi thế hệ bùng nổ dân số thực sự đến tuổi thọ, mỗi năm sẽ có 700.000 người tử vong. Ngược lại, ngay cả khi tỉ lệ sinh vượt quá 1 vào giữa những năm 2030, số trẻ sinh ra hàng năm cũng khó vượt quá 300.000. Đó là do số phụ nữ trong độ tuổi làm mẹ đã giảm đáng kể. Ngay cả khi các chính quyền địa phương nỗ lực, việc đảo ngược tình hình là rất khó. Hơn một nửa số trẻ em sinh ra vào năm ngoái (238.000 trẻ) – 54% – đã được sinh ra ở khu vực thủ đô. Khả năng những người sinh ra ở thủ đô sẽ di chuyển đến các vùng nông thôn là thấp. Chìa khóa là giảm "cường độ cạnh tranh" thông qua việc phân tán dân số, nhưng điều đó không hề dễ dàng.

Bây giờ, chúng ta cần thay đổi cách nhìn về dân số. Không thể cứ mãi cố gắng đưa dân số trở lại như trước. Cần phải chấp nhận những gì đã và đang rõ ràng xảy ra như một thực tế, và tìm kiếm cách vận hành và trật tự xã hội phù hợp với quy mô và cấu trúc dân số mới. Mặc dù các biện pháp của chính phủ nhằm làm chậm tốc độ giảm tỉ lệ sinh (phát triển cân bằng khu vực, cân bằng công việc và gia đình, chính sách nhà ở, v.v.) sẽ tiếp tục, nhưng đã đến lúc tìm kiếm các giải pháp thay thế để đối phó với tình hình mới. Dân số cấu thành xã hội và thị trường. Việc dân số thay đổi có nghĩa là xã hội và thị trường thay đổi, nhưng may mắn thay, biến động dân số có thể dự đoán gần như chính xác. Dân số cần được sử dụng tích cực như một công cụ cần thiết để chuẩn bị các biện pháp ứng phó thích hợp cho xã hội và thị trường sẽ thay đổi trong tương lai.