Xu hướng kinh tế Hàn Quốc và tác động của thuế quan Mỹ

Người nước ngoài cư trú tăng 5 lần sau 20 năm... Sức mạnh đa dạng nuôi dưỡng năng lực cạnh tranh quốc gia (1)

Quang cảnh "Phố ẩm thực đa văn hóa" ở Won-gok-dong, thành phố Ansan, Hàn Quốc. Won-gok-dong có khoảng 14.000 cư dân nước ngoài, chiếm 70% trong tổng số hơn 20.000 cư dân. [Ảnh: Thành phố Ansan]

Đại Hàn Dân Quốc "Trigger 60" ㉜ Xã hội đa văn hóa

Bước ra khỏi Lối ra số 1 của ga Ansan trên tuyến tàu điện ngầm số 4 của Hàn Quốc, một khung cảnh độc đáo hiện ra. Hai bên con hẻm là những cửa hàng bán đủ loại thực phẩm, bao gồm cả hàng tạp hóa. Các biển hiệu với chữ của nhiều quốc gia như Việt Nam, Nga, Indonesia,... được viết cùng tiếng Hàn Quốc một cách thân thiện, đập vào mắt người nhìn. Sâu trong con hẻm là một cửa hàng thịt Halal (thực phẩm và hàng tiêu dùng được phép cho người Hồi giáo). Nơi tràn ngập không khí nước ngoài này chính là "Phố ẩm thực đa văn hóa" ở Won-gok-dong, thành phố Ansan, tỉnh Gyeonggi. Vào cuối tuần, ngay cả những người nước ngoài sống ở Seoul và các thành phố khác thuộc vùng thủ đô cũng tụ tập về đây. Won-gok-dong được gọi là "Itaewon của Gyeonggi" hay "Ngôi làng không biên giới".

Việc người nước ngoài di cư đến đây bắt đầu vào giữa những năm 1990. Những vị trí trống tại các khu công nghiệp Banwol và Sihwa, nơi người Hàn Quốc xa lánh do công việc nặng nhọc với mức lương thấp, dần được lấp đầy bởi những người lao động nhập cư từ Trung Quốc và Đông Nam Á. Từ những năm 2010, quốc tịch của cư dân đã đa dạng hóa, và các cửa hàng bán buôn, bán lẻ thực phẩm và nhu yếu phẩm từ khắp nơi trên thế giới đã thực sự đổ về, tạo nên hình ảnh hiện tại.

Won-gok-dong là khu vực tập trung đông người nước ngoài nhất. Trong số hơn 20.000 cư dân, khoảng 14.000 người là người nước ngoài, chiếm 70%. Tại Trung tâm Phúc lợi Hành chính Won-gok-dong (Trung tâm Cộng đồng), các thông báo được chuẩn bị bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga, tiếng Uzbek, tiếng Việt, tiếng Indonesia, tiếng Kazakhstan. Tại trường Tiểu học Won-gok gần đó, trong số hơn 450 học sinh toàn trường (tính đến năm 2024), hơn 420 em thuộc các gia đình đa văn hóa với hơn 20 quốc tịch. Một phụ huynh đến từ Kazakhstan mà chúng tôi gặp trước trường cho biết: "Thông báo từ trường gửi về gia đình bằng hai ngôn ngữ nên việc trao đổi với giáo viên chủ nhiệm không hề khó khăn." Số lượng học sinh đa văn hóa ở các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trên cả nước đã vượt quá 200.000. Con số này cao gấp 2,5 lần so với khoảng 82.000 người vào năm 2015, tức 10 năm trước. Hiện nay, cứ 100 trẻ sơ sinh được sinh ra ở Hàn Quốc thì có 6 trẻ đến từ các gia đình đa văn hóa.

Ba yếu tố thúc đẩy đa văn hóa: Khu công nghiệp, hôn nhân và toàn cầu hóa

Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia khác xa so với huyền thoại về một quốc gia đơn chủng tộc. Thông thường, một quốc gia được coi là đa văn hóa nếu số lượng người nước ngoài cư trú vượt quá 5% dân số. Số lượng người nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc là 2,73 triệu người (tính đến nửa đầu năm 2025), chiếm khoảng 5,3% tổng dân số. Nếu tính cả các gia đình đa văn hóa đạt 439.000 hộ, tổng số người nước ngoài và người đa văn hóa ước tính sẽ vượt xa 3,5 triệu người. Đến đầu những năm 2000, người nước ngoài chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số, nhưng sau hơn 20 năm, con số này đã tăng gấp hơn 5 lần, và quốc tịch cũng đã đa dạng hóa. Tỷ lệ người nước ngoài ở Hàn Quốc không còn khác biệt nhiều so với Pháp, Anh, Canada (6-8%).

Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao Hàn-Trung vào năm 1992 đã trở thành khởi đầu cho làn sóng người nước ngoài đến Hàn Quốc một cách mạnh mẽ. Một lượng lớn đồng bào mang quốc tịch Trung Quốc đã nhập cảnh. Tuyên bố "Toàn cầu hóa" của chính quyền Kim Young-sam vào năm 1994 cũng là một yếu tố thúc đẩy người nước ngoài di cư đến Hàn Quốc. Các cuộc hôn nhân quốc tế của nam giới độc thân ở nông thôn, do chính quyền địa phương dẫn dắt, cũng bắt đầu tăng mạnh từ giữa những năm 90.

Nhiều lao động nước ngoài đã nhập cảnh thông qua "Chế độ thực tập sinh công nghiệp" được thiết lập vào năm 1993. Tuy nhiên, do chế độ này gây ra nhiều vấn đề như cư trú bất hợp pháp và vi phạm nhân quyền của người lao động nước ngoài, nên "Chế độ cấp phép việc làm" đã được giới thiệu từ năm 2004. Đây là một hệ thống do chính phủ Hàn Quốc cấp phép và quản lý để cho phép các doanh nghiệp thuê lao động nước ngoài một cách hợp pháp. Trong hơn 20 năm, tổng số người nước ngoài nhập cảnh thông qua chế độ cấp phép việc làm đã đạt 1 triệu người (tính đến năm 2024). Ngay cả ngành đóng tàu, nơi Hàn Quốc tự hào có năng lực cạnh tranh hàng đầu thế giới, cũng khó duy trì nếu không có lao động nước ngoài. Năm ngoái, 86% lực lượng lao động mới được bổ sung vào ngành đóng tàu là người nước ngoài. Tại Samho-eup, huyện Yeongam, tỉnh Jeollanam-do, hơn 10.000 người, chiếm hơn 30% tổng dân số (hơn 30.000 người), là người nước ngoài, và hầu hết trong số họ làm việc tại các nhà máy đóng tàu.

Tiến sĩ Lee Sun-hwa, chuyên gia về di trú và đa văn hóa, cho biết: "Hàn Quốc đã chứng kiến số lượng người nước ngoài cư trú tăng gần gấp 4 lần trong 8 năm từ 2000 đến 2008," và "do thiếu ý thức cùng tồn tại và phương pháp giao tiếp, sự phân biệt đối xử và xung đột đã xuất hiện ở khắp mọi nơi." Bà nhận định rằng Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển đổi sang một xã hội đa văn hóa mà không có sự chuẩn bị. Mặc dù nhận thức về người nước ngoài và các gia đình đa văn hóa đang được cải thiện, nhưng xung đột và phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại. Vào tháng 2 năm nay, tại Naju, tỉnh Jeollanam-do, đã xảy ra một vụ việc lạm dụng lao động nhập cư bằng cách trói họ vào hàng hóa và nâng lên bằng xe nâng. Giáo sư Chung Ji-yoon (chuyên ngành Đa văn hóa quốc tế), người đã thành lập khoa "Nghiên cứu di trú" đầu tiên ở Hàn Quốc tại Đại học Myongji cách đây 15 năm, cho rằng: "Giáo dục nhận thức đa văn hóa cho người bản xứ quan trọng hơn," và "những người có nền tảng di cư là thành viên chính thức của xã hội Hàn Quốc và là đối tác cùng kiến tạo tương lai."

Phương trình "Người nước ngoài = Lao động nhà máy" cũng đang dần sụp đổ. Bởi vì có không ít du học sinh, nhà nghiên cứu, và kỹ thuật viên chuyên môn. Số lượng du học sinh nước ngoài tại Hàn Quốc là khoảng 270.000 người (tính đến năm 2024), chiếm 1/10 số người nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc. Các chuyên gia cho rằng đã đến lúc xã hội đa văn hóa của Hàn Quốc nên phát triển thành một trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia.

Xuất khẩu của Hàn Quốc từ 1-20/9 tăng 13,5% so với năm trước… Trung bình mỗi ngày giảm 10,6%

Cảng Pyeongtaek ở Gyeonggi-do với các container chất chồng. [Tin tức 1]

Xuất khẩu của Hàn Quốc đến giữa tháng này đã tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm trước, do các yếu tố như số ngày làm việc tăng lên. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu trung bình mỗi ngày, sau khi loại bỏ hiệu ứng số ngày làm việc, đã giảm đáng kể do ảnh hưởng của thuế quan Mỹ.

Theo Cục Hải quan, từ ngày 1 đến 20 tháng này, xuất khẩu đạt 40,1 tỷ USD (khoảng 6 nghìn tỷ yên), tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu trung bình mỗi ngày, sau khi tính đến số ngày làm việc, là 2,43 tỷ USD, giảm 10,6% so với năm ngoái (2,72 tỷ USD). Điều này được giải thích là do ảnh hưởng của thuế quan Mỹ. Số ngày làm việc trong năm nay là 16,5 ngày, nhiều hơn 3,5 ngày so với năm ngoái (13,0 ngày), khi có kỳ nghỉ lễ Chuseok (Tết Trung thu).

Xuất khẩu hàng tháng của tháng trước đã tăng 1,3%, đánh dấu tháng tăng thứ ba liên tiếp. Ngược lại, xuất khẩu sang Mỹ giảm 12% do ảnh hưởng của thuế quan Mỹ, xuống mức thấp nhất trong hai năm rưỡi.

Xét theo từng mặt hàng từ ngày 1 đến 20, các mặt hàng như chất bán dẫn (27,0%), xe khách (14,9%), tàu thuyền (46,1%), thiết bị truyền thông không dây (3,3%) đều tăng, nhưng các sản phẩm dầu mỏ (-4,5%) lại giảm.

Theo quốc gia, xuất khẩu đã tăng ở hầu hết các nước như Trung Quốc (1,6%), Mỹ (6,1%), Việt Nam (22,0%), Liên minh Châu Âu (EU, 10,7%), Đài Loan (22,9%).

Nhập khẩu đạt 38,2 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước.

Theo từng mặt hàng, chất bán dẫn (4,1%), thiết bị sản xuất bán dẫn (49,9%), máy móc các loại (16,3%), khí tự nhiên (10,4%) đều tăng, trong khi dầu thô (-9,4%) giảm.

Theo quốc gia, nhập khẩu từ Trung Quốc (18,8%), EU (10,4%), Mỹ (6,9%), Nhật Bản (4,5%), Úc (27,7%) đều tăng.

Kim ngạch xuất khẩu vượt kim ngạch nhập khẩu, cán cân thương mại đạt thặng dư 1,9 tỷ USD.

"Khai thác thị trường toàn cầu không phải là lựa chọn mà là bắt buộc"... Số startup Hàn Quốc đặt trụ sở ở nước ngoài tăng gấp 6 lần trong 10 năm

Sáu đại diện doanh nghiệp đổi mới đã trả lời phỏng vấn với JoongAng Ilbo vào ngày 11. Từ trái sang theo chiều kim đồng hồ: Tổng giám đốc Choi Hong-guk của Olgot, CEO Baek Jun-jin của Talent LNG, CEO Park Hee-deok của Translink Investment, CEO Kim Hyung-woo của Travel Wallet, Đồng CEO Yoon Seo-young của Apartmentary, Đồng CEO Lee Hye-min của Finda. Phóng viên Kim Sung-ryong.

Các startup và doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc, được trang bị năng lực cạnh tranh công nghệ và dịch vụ mới, dự kiến sẽ ngày càng tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Có ý kiến cho rằng hỗ trợ của chính phủ nên tập trung vào "tăng trưởng" hơn là giai đoạn gia nhập ban đầu. Đây là kết quả cuộc khảo sát mà JoongAng Ilbo đã thực hiện với 60 đại diện startup và doanh nghiệp vừa và nhỏ được Diễn đàn Startup Hàn Quốc và Viện Xúc tiến Thông tin Công nghệ Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ đề cử, nhân kỷ niệm 60 năm thành lập, từ ngày 11 đến 19.

Các doanh nhân được hỏi đều đồng tình rằng "việc khai thác thị trường toàn cầu không phải là lựa chọn mà là bắt buộc." Họ nêu ra các lý do như thị trường và nguồn lực nội địa hạn chế, sự tự tin vào công nghệ và dịch vụ, và việc thoát khỏi cấu trúc công nghiệp tập trung vào các tập đoàn lớn. CEO Kwak Ji-ho của Neural D kỳ vọng: "Nếu chúng ta khai thác thị trường toàn cầu và chiếm lĩnh thị phần sớm, rào cản gia nhập sẽ tăng lên và chúng ta có thể tăng trưởng ổn định." Công ty này đã phát triển một hệ thống sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để chẩn đoán và quản lý tình trạng của các cơ sở điện lực, đường ống dẫn dầu, và đã cùng với KEPCO (Tập đoàn Điện lực Hàn Quốc) thâm nhập vào Ả Rập Xê Út, Mỹ, Việt Nam và các thị trường khác. Giáo sư danh dự Lee Byung-tae của KAIST cho biết: "Các dịch vụ như y tế và tài chính, nếu có công nghệ vượt trội, việc vươn ra toàn cầu không khó, nhưng lại không thể phát triển trong nước do các quy định của chính phủ."

Việc thành lập pháp nhân ở nước ngoài ngay từ giai đoạn khởi nghiệp hoặc chuyển đổi các công ty con ở nước ngoài thành trụ sở chính cũng đang nổi lên như một chiến lược khởi nghiệp mới. Theo công ty thông tin đầu tư mạo hiểm The VC, số lượng startup Hàn Quốc đặt trụ sở chính ở nước ngoài đã tăng khoảng 6 lần, từ 32 công ty vào năm 2014 lên 186 công ty vào năm ngoái. Khởi nghiệp ở nước ngoài được nhận thấy là có lợi thế hơn so với trong nước về mặt huy động vốn, mua bán sáp nhập và niêm yết.

Tuy nhiên, thực tế là việc thâm nhập thị trường nước ngoài không hề dễ dàng. Trong số những người trả lời, 26 người có tỷ lệ đầu tư ra nước ngoài (dựa trên nhân lực và số tiền đầu tư) dưới 10% là nhiều nhất. Tỷ lệ doanh thu ở nước ngoài cũng có hơn một nửa là dưới 10%. Chỉ có Balance Hero, một công ty fintech đánh giá tín dụng đã ghi nhận tổng cộng 100 triệu lượt tải ứng dụng ở Ấn Độ, và Izen Implant, một công ty cấy ghép nha khoa đã được chứng nhận ở châu Âu và Mỹ, là có tỷ lệ doanh thu ở nước ngoài vượt quá 90%.

Trở ngại lớn nhất trong việc mở rộng thị trường nước ngoài, theo 89 người trả lời (có thể chọn nhiều đáp án), là khó khăn trong quản lý tại địa phương như đảm bảo nhân lực, tiếp thị, visa và kế toán. Tiếp theo là huy động vốn tại địa phương với 39 người, và rào cản ngôn ngữ với 20 người.

Đối với chính sách của chính phủ, họ đánh giá là có hiệu quả không đáng kể. Họ đánh giá hỗ trợ của chính phủ trung bình 5,18 điểm trên thang điểm 10. CEO Kang Byung-tak của AI Spera, một công ty tình báo mối đe dọa mạng với hơn 90% người dùng ở nước ngoài, cho biết: "Không thể đảm bảo nhân lực từ xa. Hỗ trợ của chính phủ thường có số tiền nhỏ, và các công ty có khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài thấp thường đăng ký như một trải nghiệm." CEO Lee Ju-jin của công ty Edutech Zezeedu cũng chỉ ra rằng: "Các chương trình của chính phủ chủ yếu tập trung vào các chuyến công tác ngắn hạn ở nước ngoài, nên cấu trúc này khó khăn trong việc thực sự thu hút khách hàng hoặc nhà đầu tư."

Các doanh nghiệp cũng thường gặp khó khăn ở giai đoạn mở rộng quy mô, khi mà kết quả kinh doanh và tạo việc làm được kỳ vọng. Đại diện Kim Yoon-hee của Minda bày tỏ sự tiếc nuối: "Hầu hết các chương trình hỗ trợ của Bộ Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư đều tập trung vào các doanh nghiệp dưới 7 năm thành lập." Cũng có ý kiến chỉ ra rằng "trọng tâm là các lĩnh vực như công nghệ thông tin và phân phối, nơi kết quả tương đối ngắn hạn" (Đại diện Shim Seung-seop của Hydrochem). Trưởng bộ phận chính sách kinh tế Kim Hyun-joo của Viện Nghiên cứu Quản lý LG cho rằng: "Chính phủ cần chuẩn bị các chính sách hỗ trợ theo từng giai đoạn phát triển, từ giai đoạn khởi nghiệp ban đầu phù hợp với vòng đời của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần một chu trình tuần hoàn tốt, đóng góp cho cộng đồng, thuế và việc làm."

Hàn Quốc chịu 3,3 tỷ USD thuế quan Mỹ trong quý II... gấp 47 lần so với trước chính quyền Trump

Đứng thứ 6 thế giới... Tỷ lệ tăng trưởng cao nhất

Trong quý II, khi Mỹ chính thức bắt đầu "cuộc chiến thuế quan," quy mô thuế quan áp đặt lên hàng xuất khẩu của Hàn Quốc đứng thứ 6 thế giới, và tỷ lệ tăng thuế quan là cao nhất trong số 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu sang Mỹ.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc (KCCI) ngày 21 thông báo rằng kết quả phân tích thống kê của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) về 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu sang Mỹ trong quý II cho thấy, tổng số thuế quan áp đặt lên hàng hóa Hàn Quốc là 3,3 tỷ USD (khoảng 488 tỷ yên), đứng thứ 6. Theo từng mặt hàng, ô tô và phụ tùng ô tô chiếm 1,9 tỷ USD (khoảng 281 tỷ yên), tức 57,5% tổng số thuế quan.

Về kim ngạch thuế quan đối với hàng xuất khẩu sang Mỹ, Trung Quốc đứng đầu với 25,93 tỷ USD, tiếp theo là Mexico (5,52 tỷ USD), Nhật Bản (4,78 tỷ USD), Đức (3,57 tỷ USD), và Việt Nam (3,34 tỷ USD). So với quý IV năm ngoái, ngay trước khi chính quyền Trump lần thứ hai nhậm chức, mức tăng thuế quan đối với hàng hóa Hàn Quốc là 3,23 tỷ USD, đứng thứ tư sau Trung Quốc (14,18 tỷ USD), Mexico (5,21 tỷ USD) và Nhật Bản (4,2 tỷ USD).

Đặc biệt, tỷ lệ tăng thuế quan trong quý II năm nay so với quý IV năm ngoái của Hàn Quốc là cao nhất, đạt 4614% (gấp 47,1 lần). Tiếp theo là Canada (1850%), Mexico (1681%), Nhật Bản (724%), Đức (526%) và Đài Loan (377%). Tỷ lệ tăng thuế quan của Hàn Quốc cao đến mức này là do cho đến quý I năm nay, hầu như không có thuế quan đối với hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Mỹ. Tuy nhiên, bắt đầu từ quý II, thuế quan cơ bản 10% đã được áp dụng cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu, và sau đó là thuế quan 25% đối với ô tô và phụ tùng ô tô, là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Trước đó, từ tháng 3, thuế quan theo mặt hàng đã có hiệu lực đối với các sản phẩm thép và nhôm. Mặc dù hàng hóa Hàn Quốc được hưởng lợi từ FTA, nhưng việc áp đặt thuế suất cao đã khiến mức độ thiệt hại tương đối lớn hơn. Trung Quốc có mức tăng thuế quan cao nhất, nhưng vì nước này đã bị áp thuế suất cao từ thời chính quyền Joe Biden nên tỷ lệ tăng là thấp nhất trong số 10 quốc gia.

Trưởng ban nghiên cứu Kang Seok-gu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc chỉ ra: "Nếu giả định rằng các doanh nghiệp xuất khẩu chịu một phần tư trong số 15% thuế quan lẫn nhau, thì họ sẽ phải chịu 3,75% thuế quan trên tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ." Ông nói thêm: "Xét rằng tỷ suất lợi nhuận hoạt động trên doanh thu của các doanh nghiệp sản xuất Hàn Quốc năm ngoái là 5,6%, thì yếu tố gánh nặng đã tăng lên đáng kể."

Hàn Quốc đứng đầu về tốc độ tăng thuế quan Mỹ trong số 10 nước xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ… Tăng gấp 47 lần sau khi Trump tái đắc cử

Ngày 16, ô tô xuất khẩu được đỗ tại cảng Pyeongtaek, tỉnh Gyeonggi. [Ảnh: Yonhap News]

Trong số 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu sang Mỹ, tốc độ tăng thuế quan của Hàn Quốc là nhanh nhất. Thuế quan mà Mỹ áp đặt lên Hàn Quốc trong quý II (tháng 4-6) đã tăng gấp 47 lần so với quý IV năm ngoái (tháng 10-12).

Kết quả phân tích thống kê thuế quan của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc thực hiện, với đối tượng là 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu sang Mỹ, cho thấy kim ngạch thuế quan xuất khẩu của Hàn Quốc sang Mỹ trong quý II (tháng 4-6) là 3,3 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 6, sau Trung Quốc với 25,93 tỷ USD, Mexico 5,52 tỷ USD, Nhật Bản 4,78 tỷ USD, Đức 3,57 tỷ USD và Việt Nam 3,34 tỷ USD.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng thuế quan của Hàn Quốc là cao nhất. So với quý IV năm ngoái (tháng 10-12), trước khi chính quyền Trump lần thứ hai nhậm chức, mức tăng là 3,23 tỷ USD, quy đổi ra tỷ lệ tăng là 47,1 lần, đứng đầu trong số 10 quốc gia. Tiếp theo là Canada với 19,5 lần, Mexico 17,8 lần, Nhật Bản 8,2 lần, Đức 6,3 lần và Đài Loan 4,8 lần.

Mặc dù Hàn Quốc hầu như không có thuế quan trong quý I (tháng 1-3) nhờ Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) Hàn-Mỹ, nhưng từ quý II (tháng 4-6), thuế quan phổ quát 10% và thuế quan theo mặt hàng như ô tô, phụ tùng ô tô, thép, nhôm đã được áp dụng, khiến mức tăng đáng kể. Trong số thuế quan của Hàn Quốc trong quý II, 57,5% là thuế đối với ô tô và phụ tùng ô tô. Tiếp theo là máy móc 9,5%, điện-điện tử 9,4%, thép 8,8% và nhôm 2,6%.

Dự kiến, gánh nặng của các doanh nghiệp xuất khẩu Hàn Quốc sẽ tăng lên nếu thuế quan kéo dài. Theo báo cáo của Goldman Sachs, vào tháng 6, các nhà nhập khẩu Mỹ đã chịu 64% thuế quan, nhưng từ tháng 10 trở đi, mức độ chịu gánh nặng sẽ thay đổi theo thứ tự: người tiêu dùng Mỹ 67%, doanh nghiệp xuất khẩu 25% và doanh nghiệp nhập khẩu 8%. Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc nhấn mạnh rằng, xét đến tỷ suất lợi nhuận hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Hàn Quốc năm ngoái là 5,6%, gánh nặng thuế quan đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn và cần được hỗ trợ khẩn cấp.